Review thành phần

Trắng da bằng Hydroquinone và Arbutin?

Tác giả: Lê Phước Thành Đạt

Nám da hay các rối loạn sắc tố trên mặt luôn là niềm quan tâm hàng đầu của chị em phụ nữ. Trong số các hoạt chất làm trắng da thì Hydroquinone được xem là “tiêu chuẩn vàng”. Vậy sử dụng Hydroquinone và Arbutin (một chất liên quan đến HQ) có cần chú ý gì không?

 

 

Chứng tăng sắc tố da là một vấn đề quan trọng và rất đáng quan tâm trong thẩm mỹ. Tình trạng này thường thấy nhất ở những người trung niên và cao tuổi do tiếp xúc với ánh sáng cực tím, một số thuốc hoặc hóa chất hoặc sự tồn tại của bệnh tật. Biểu hiện là các mảng da trở nên sẫm màu hơn so với vùng da bình thường xung quanh. Sự sẫm màu này xảy ra khi sự dư thừa của melanin, sắc tố nâu tạo ra màu da bình thường, hình thành cặn trên da. Tăng sắc tố cũng có thể là một chứng viêm da do bị tổn thương, lột da (peel) bằng hóa chất, trị liệu bằng laser hoặc do mụn trứng cá. Điều trị chứng tăng sắc tố có thể rất khó khăn vì nhiều tác nhân gây kích ứng da và yêu cầu nhiều tháng duy trì sử dụng để có kết quả rõ ràng. Tất cả đều yêu cầu người dùng tuân thủ quy định với kem chống nắng để ngăn ngừa tác dụng làm sáng da bị “phản tác dụng. [1]

 

Một số nguyên nhân của chứng tăng sắc tố: [1]

 

1) Bệnh về da:

 

Hình 1. Chứng Melasma [O1]

 

– Melasma (Nám da: da tăng đậm từng mảng màu nâu nhạt, nâu đậm)

 

Hình 2. Chứng tăng sắc tố đỏ nang lông [O2]

 

– Erythromelanosis follicularis (Tăng sắc tố đỏ nang lông vùng mặt và cổ)

– Bệnh lý khác: Linea fusca Poikiloderma of Civatte, Post Inflammatory hyperpigmentation, Riehl’s melanosis,…

 

2) Nguyên nhân bên ngoài:

– Mỹ phẩm

– Thuốc (ví dụ: estrogen, tetracycline, amiodarone, phenytoin, phenothiazin, sulfonamid)

– Các tác nhân gây nhạy cảm với ánh sáng (ví dụ, viêm da berloque, furocoumarins)

– Tiếp xúc với tia cực tím (ví dụ: nám da, ephelides)

 

3) Các nguyên nhân khác:

– Bệnh lý Addison

– Hemochromatosis

– Bệnh gan

– Khối u tuyến yên

– Thai kỳ

 

 

Các sản phẩm làm trắng da ngày càng trở nên có nhu cầu trong vài năm trở lại đây. Mục đích chính của các sản phẩm này là làm sáng da cũng như làm đều màu da hoặc để điều trị các rối loạn sắc tố như tàn nhang, nám da và các đốm đồi mồi. Các chất làm trắng da tự nhiên và thành công nhất gần đây là arbutin, vitamin C, Kojic acid, chiết xuất cam thảo, chiết xuất rễ cây burnet, chiết xuất scutellaria và dâu tằm. Tất cả các tác nhân này đều là chất ức chế tyrosinase, làm bất hoạt tyrosinase(*) (Enzyme chịu trách nhiệm về sắc tố da). Màu da bình thường được hình thành bởi melanin, một sắc tố tự nhiên cũng quyết định màu tóc và mắt. Trong da, enzyme tyrosinase chuyển hóa sinh học amino acid tyrosine thành melanin(**). Chứng tăng sắc tố da xảy ra khi quá nhiều hắc tố được sản sinh và hình thành “cặn” trên da.

 

(*)Tyrosinase là một loại enzyme quan trọng xúc tác melanin tổng hợp trong tế bào sắc tố.

(**) Melanin, sắc tố chính tạo màu cho da, có thể được sản xuất quá mức khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời hoặc trong các điều kiện da mắc các chứng như nám da hoặc các bệnh tăng sắc tố. Melanin đóng một vai trò quan trọng trong kiểu hình xuất hiện, bảo vệ da chống lại tia cực tím (UV), cân bằng và xử lý thính giác, hấp thụ thuốc và hóa chất độc hại, và phát triển thần kinh trong quá trình hình thành phôi [5]

 

 

 

Arbutin là một glycoside tự nhiên của Hydroquinone. [1]

 

 

Hình 3. Công thức cấu tạo của Hydroquinone và Arbutin. [O5]

 

Arbutin đã được sử dụng như một chất làm trắng trong các sản phẩm mỹ phẩm. Khả năng ức chế enzyme tyrosinase làm giảm sinh tổng hợp melanin của Arbutin ở người đã dẫn đến việc sử dụng rộng rãi nó trong nhiều công thức mỹ phẩm.

 

Hình 4. Cơ chế ngăn chặn sản sinh Melanin của alpha-Arbutin [O5]

 

Arbutin bảo vệ da chống lại các tổn thương do các gốc tự do gây ra. Nó là một chất làm trắng da rất phổ biến ở Nhật Bản và các nước Châu Á để giảm sắc tố da. Arbutin ức chế sự hình thành sắc tố melanin bằng cách ức chế hoạt động của tyrosinase [3]. Arbutin cũng được sử dụng để điều trị viêm da dị ứng, làm trắng da, chống các đốm sắc tố và tàn nhang, chữa cháy nắng và để điều chỉnh và giảm sự hình thành hắc sắc tố [4]. Arbutin là một chất làm trắng da để sử dụng bên ngoài mà không có độc tính hay kích ứng, không có mùi khó chịu hoặc tác dụng phụ như Hydroquinone. Arbutin ưa nước có thể được kết hợp trong môi trường ưa dầu bằng cách đóng gói (encapsulation) để tăng khả năng hấp thụ vào da. Arbutin có ba đặc tính chính: tác dụng làm trắng, chống lão hóa và có vai trò như một bộ lọc tia UVB/UVC [2].

 

Ở động vật có vú, hormone kích thích tế bào hắc sắc tố – α-MSH là cần thiết cho việc sản sinh sắc tố, làm tăng melanin để bảo vệ da. Tuy nhiên, sự hình thành melanin quá mức và sự tích tụ của melanin trong da gây tăng sắc tố da rối loạn như nám, tàn nhang, đốm sắc tố và các vấn đề lão hóa nói chung. Tyrosinase là một loại enzyme đa chức năng đóng một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh lượng sản sinh sắc tố melanin. Theo nghiên cứu [5], để xem xét Arbutin với vai trò ức chế phụ thuộc vào liều lượng đối với hoạt động của tyrosinase, người ta đã thực hiện thí nghiệm trên da chuột lang (một mô hình nghiên cứu tốt do tương tự với da người), để kiểm tra tác dụng ức chế của Arbutin trong quá trình tổng hợp melanin trong tế bào hắc sắc tố B16 được kích thích bởi α-MSH.

 

Thí nghiệm như sau, mỗi mẫu sinh thiết da được ổn định và xử lý bằng và α-MSH trong 24 giờ để α -MSH gây ra sự gia tăng sản xuất melanin trên mô da. Sau 24 giờ, da các mô được xử lý bằng 10mM arbutin trong 72 giờ. Sau 3 ngày, mẫu được kiểm tra mô học.

Kết quả cho thấy, khi tiếp xúc với α-MSH, hàm lượng melanin của tế bào tăng lên khoảng 23%(Hình 1).

Arbutin không gây độc tế bào đáng kể đối với tế bào B16 ở nồng độ 10-250 µM, mặc dù nó có thể gây độc độc tế bào ở liều cao hơn (Hình 2A). Để điều tra ảnh hưởng của arbutin trên sự hình thành hắc tố, tế bào B16 đã được nuôi cấy với 10-1000 µM Arbutin. Arbutin làm giảm sản xuất melanin một cách phụ thuộc vào liều lượng (Hình 2). Arbutin thể hiện tác dụng ức chế phụ thuộc liều lượng: 66% ức chế ở 1000 µM, 59% ở 500 µM, 51% ở 250 µM, 46% ở 100 µM và 32% ở 10 µM (Hình 2B). [6]

 

 

Hình 5. Sự ảnh hưởng của α-MSH (theo nồng độ) lên sự kiểm soát hàm lượng melanin.[6]

 

Hình 6. Sự ảnh hưởng của Arbutin (theo nồng độ) lên sự tồn tại của tế bào (A) và sự ức chế melanin bởi Arbutin (B) [6]

 

Có 2 loại là alpha và beta-arbutin được dùng trong mỹ phẩm

 

Hình 7. Công thức cấu tạo alpha-Arbutin và beta-Arbutin. [O5]

 

Alpha-Arbutin với tên hóa học là 4-Hydroxyphenyl- α -D-glucopyranoside là một thành phần mỹ phẩm không được quản lý theo Quy định Mỹ phẩm số 1223/2009. Nó được sử dụng như chất chống oxy hóa, tẩy trắng và dưỡng da.

Đồng phân của Alpha-Arbutin là Beta-Arbutin cũng được sử dụng như một chất giúp làm giảm sắc tố trong các sản phẩm mỹ phẩm. Tác dụng của Beta-arbutin dường như là thủy phân thành Hydroquinone để ức chế sản sinh Melanin nên vấn đề về an toàn khi sử dụng cần được quan tâm bởi vì Hydroquinone được liệt kê trong Phụ lục II / 1339 của Quy chế Mỹ phẩm số 1223/2009; có nghĩa là nó bị cấm như một thành phần mỹ phẩm. Vì Hydroquinone không thể được sử dụng làm chất làm trắng da sau khi ban hành lệnh cấm, các chất khác đã được sử dụng để mục đích đó, bao gồm α -Arbutin và beta-Arbutin.

 

Kết luận:

SCCS (Scientific Committee on Consumer Safety) kết luận rằng: Nồng độ sử dụng α -Arbutin an toàn cho người tiêu dùng trong các sản phẩm mỹ phẩm lên đến 2% trong kem dưỡng da mặt và 0,5% trong kem dưỡng thể.[6]

 

Beta-Arbutin tên hóa học là 4-hydroxy-phenyl- β -D-glucopyranoside. Chất này được sử dụng như một thành phần hóa học đơn lẻ và như một thành phần chiết xuất từ ​​thực vật như Arctostaphylos Uva Ursi, Vaccinium Vitis-Idaea, Chimaphila Umbellata,… tất cả đều giàu hàm lượng Arbutin.

Như đã nhắc đến ở trên, beta-arbutin dường như phân huỷ thành Hydroquinone, nhưng Hydroquinone đã bị cấm sử dụng trong mỹ phẩm. Vậy beta-arbutin có an toàn không?

 

Ý kiến ​​đầu tiên về β-arbutin đã được thông qua với kết luận: “Mặc dù đánh giá độc tính chung của β-arbutin cho thấy chất này có thể an toàn. SCCS coi việc sử dụng β-arbutin là an toàn cho người tiêu dùng trong các sản phẩm mỹ phẩm với nồng độ lên đến 7% trong kem mặt với điều kiện là sự nhiễm hydroquinone trong mỹ phẩm công thức vẫn dưới 1 ppm.

Ban đầu, hydroquinone được phép sử dụng ở nồng độ 2%, nhưng theo ý kiến của SCCNFP (1998) khuyến cáo rằng chất này không nên được sử dụng nữa trong các sản phẩm mỹ phẩm do quan sát thấy lâm sàng các tác dụng phụ, trong số đó có bệnh exogenous ochronosis (một loại bệnh viêm da).

 

Kết luận:

Do đó, SCCS (Scientific Committee on Consumer Safety) cho rằng việc sử dụng β-arbutin trong các sản phẩm mỹ phẩm hiện đang được xem như là không an toàn vì có khả năng thủy phân thành Hydroquinone.[7]

*Đối với phụ nữ mang thai: Arbutin là một dẫn xuất tự nhiên của Hydroquinone và Hydroquinone không được khuyến khích cho phụ nữ mang thai, điều đó có nghĩa là Arbutin là thành phần không được phép dùng khi mang thai?

Theo German Commission E và The American Herbal Products Association chống chỉ định sử dụng Arbutin trong khi mang thai, do có khả năng nhiễm độc hydroquinone trong bào thai. Sự tiếp xúc của các tế bào lympho và tế bào của người với hydroquinone đã được chứng minh là gây ra nhiều dạng tổn thương di truyền khác nhau. Arbutin cũng được chống chỉ định trong thời kỳ cho con bú.[8]

 

So với Beta-Arbutin thì Alpha arbutin có tính ổn định cao và có công dụng cao gấp nhiều lần ở cùng nồng cho nên các sản phẩm khi quảng cáo người ta thường dùng công dụng của alpha-arbutin ra để nói nhưng thực tế nhiều sản phẩm chỉ sử dụng Beta-Arbutin.

Vì thế khi lựa chọn sản phẩm, chỉ nên chọn những sản phẩm nào có ghi thành phần cụ thể, rõ ràng là Alpha-arbutin nhé!

Sau đây là những sản phẩm chứa Alpha-Arbutin bạn có thể tham khảo:

 

 

 

Hydroquinone (HQ) là một chất làm sáng da hiệu quả và được sử dụng rộng rãi để điều trị nám da, tăng sắc tố sau viêm và các rối loạn tăng sắc tố khác. Nó hoạt động bằng cách ức chế việc chuyển đổi tyrosine thành melanin. Hydroquinone có bán tại các cửa hàng ở Hoa Kỳ với nồng độ lên đến 2% và được kê theo toa ở nồng độ từ 3 đến 4%.[9]

 

Hydroquinone là “thành phần vàng” để làm sáng da, cho đến khi các cơ quan quản lý ở Nhật Bản, Châu Âu và gần đây nhất là Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự an toàn của chất này khi dùng trong mỹ phẩm.

 

Các triệu chứng của sắc tố thường được cải thiện sau từ 4 đến 6 tuần khi điều trị bằng hydroquinone. Các tác dụng phụ phổ biến nhất liên quan đến hydroquinone là kích ứng da và viêm da tiếp xúc, có thể được điều trị bằng steroid bôi tại chỗ. Một tác dụng phụ hiếm gặp là phát triển bệnh hắc lào ngoại sinh, một chứng tăng sắc tố da dầu trong khu vực điều trị bằng hydroquinone. Mặc dù tác dụng phụ này không phổ biến khi sử dụng bình thường ở tần suất thấp, nhưng nó có thể xảy ra khi sử dụng hydroquinone trong thời gian dài. [9]

 

Điều này đã khuyến khích nghiên cứu các tác nhân thay thế để ức chế sắc tố da như retinoids, mequinol, azelaic acid, arbutin, kojic acid, aleosin, chiết xuất cam thảo, ascorbic acid, protein đậu nành và N-acetyl glucosamine. Hiệu quả và độ an toàn của các chất này được xem xét để thay thế cho Hydroquinone trong khoảng thời gian gần đây.

 

Nhiều sản phẩm trên thị trường với công thức có chứa Hydroquinone chưa từng được nghiên cứu về tính an toàn và hiệu quả. Những công thức này bao gồm những loại có chứa 2% hydroquinone, nồng độ tối đa cho phép trong sản phẩm OTC (không cần kê đơn), và một số công thức hydroquinone 4% thông thường được bán theo đơn.[10] Nhiều công thức hydroquinone mới có xuất hiện trong những năm gần đây và cũng có nhiều sản phẩm chưa qua nghiên cứu lâm sàng nên nhiều loại kem chứa hydroquinone được bán trên thị trường gây lo ngại về vấn đề sức khỏe.

 

Kể từ ngày 2 tháng 1 năm 2001, việc sử dụng hydroquinone bị cấm như một thành phần trong mỹ phẩm trong Liên minh Châu u (EU). Quyết định của EU dựa trên cơ sở những tác dụng phụ được thấy, chủ yếu là leukomelanderma en confetti và bệnh ochronosis ngoại sinh.[11]

 

 

Hình 8. Chứng leukomelanderma en confetti [O3]

 

 

Hình 9. Chứng exogenous ochronosis [O4]

 

Trong nhiều năm, hydroquinone được biết đến như là có thể gây ra chứng exogenous ochronosis (viêm da dầu). Liệu đây có phải là tác dụng phụ của hydroquinone gây ra hoặc do các chất khác hiện diện trong công thức vẫn chưa được nghiên cứu và làm rõ. Mối quan tâm càng được phát sinh khi hydroquinone qua đường tiêu hóa được báo cáo là gây ung thư ở loài chuột khi được cho ăn với một lượng lớn hydroquinone, nhưng khả năng gây ung thư ở người thì không được thành lập qua con đường này. Mặc dù đường tiêu hóa có lẽ không liên quan đến ứng dụng tại chỗ như là các sản phẩm mỹ phẩm để thoa ngoài, nhưng hydroquinone vẫn còn gây tranh cãi vì nó có thể độc hại đối với tế bào hắc tố.

 

Hydroquinone, một hợp chất phenolic về mặt hóa học được gọi là 1,4 dihydroxybenzene, hoạt động bằng cách ức chế quá trình oxy hóa enzyme tyrosine. Nó liên kết cộng hóa trị với histidine hoặc tương tác với đồng tại vị trí hoạt động của tyrosinase. Nó cũng ức chế tổng hợp RNA, DNA và có thể thay đổi sự hình thành melanosome, do đó tác động lên tế bào hắc tố một cách có chọn lọc. Những hoạt động này ngăn chặn quá trình trao đổi chất của melanocyte, làm giảm dần sự sản xuất sắc tố melanin trên da.

 

Hydroquinone thường rất kém bền, màu sắc thay đổi thành màu vàng đậm hơn hoặc màu nâu khi xảy ra quá trình oxi hóa. Khi sự đổi màu xuất hiện, hoạt động cũng như công dụng của hydroquinone sẽ bị giảm. Các sản phẩm với bất kỳ sự thay đổi màu sắc nào sẽ ngay lập tức phải bỏ đi. [10] Các công thức hydroquinone theo toa hay trong mỹ phẩm cố gắng làm tăng khả năng làm sáng da của công thức bằng cách thêm chất tăng cường thâm nhập chẳng hạn như glycolic acid hoặc tretinoin như một chất hỗ trợ làm sáng da. Bên cạnh đó, một số công thức đã bổ sung thêm thành phần chống nắng để ngăn ngừa sạm da do tia UV gây ra.

 

Hydroquinone là một hoạt chất làm trắng da hiệu quả và đã có nhiều nghiên cứu lâm sàng chứng minh nên mình sẽ không đề cập nhiều ở đây. Thay vào đó, mình sẽ đề cập đến các nghiên cứu về ảnh hưởng của HQ đến cơ thể.

 

Để có được cái nhìn rõ ràng hơn về tác động của Hydroquinone đối với cơ thể, nhiều nghiên cứu cũng đã được thực hiện, nổi bật nhất là nghiên cứu [11] – nghiên cứu tập trung vào xem xét tác động hoá sinh và độc tính của Hydroquinone, Benzen và các phân tử có cấu trúc tương tự.

Hydroquinone thường được sử dụng 1 lần mỗi ngày với tỷ lệ 2% trong kem dưỡng, được thoa lên mặt để điều trị nám da hoặc tăng sắc tố sau viêm sau mụn trứng cá, nhưng kem cũng được sử dụng trên các bộ phận khác của cơ thể để theo dõi.

 

Điều trị bằng hydroquinone trên diện tích da khoảng 1-5% bề mặt cơ thể vẫn được xem là bình thường, nhưng trong trường hợp điều trị không theo cơ sở y tế hay theo ý kiến bác sĩ thì cần phải điều trị lâu dài, có thể là trong nhiều năm để có thể thấy sự cải thiện.

 

Diện tích khu vực điều trị và lượng sử dụng càng lớn thì lượng hydroquinone đi và cơ thể thông qua da cũng càng lớn. Đối với thời gian sử dụng cũng có hiệu quả tương tự, thông thường hiệu quả của điều trị có thể nhìn thấy chỉ sau 4–6 tuần, số khác có thể mất đến 6 tháng.

 

Trong quá trình tiếp xúc này, hydroquinone được hấp thụ, chuyển hóa và đào thải ra ngoài như thế nào?

 

Hình 10. Sơ đồ hấp thụ và chuyển hoá Hydroquinone trong cơ thể [11]

 

Wester và cộng sự tiến hành “short-term single dose in vivo” thử nghiệm với con người. Những thí nghiệm này đã cho thấy hydroquinone được da hấp thụ hiệu quả (45% tổng lượng dùng) và cũng nhanh chóng được da hấp thụ (35% trong 1 giờ). Nó nhanh chóng được giải phóng vào máu (30% trong vòng 1 giờ). Bài tiết qua nước tiểu (35% sau 24 giờ) chậm hơn so với sự hấp thu vào cơ thể. Dễ dàng nhận thấy rằng, kem chứa hydroquinone được dùng sau mỗi 24 giờ thì da hấp thụ một lượng 45%, trong khi đó chỉ có 35% lượng Hydroquinone được bài tiết ra khỏi cơ thể, nên việc tích tụ lại một lượng Hydroquinone trong cơ thể là một điều chắc chắn xảy ra khi sử dụng lâu dài.[11]

 

Các nghiên cứu ở một tình nguyện viên trên người và trên chuột cho thấy hydroquinone được phân phối trong cơ thể sau khi xâm nhập đến dòng máu. Hydroquinone có trong máu dưới dạng hydroquinone tự do (35%) và cũng liên kết thuận nghịch với chất đạm (protein) (35%); phần còn lại là liên kết không thuận nghịch với protein.

 

Từ lâu người ta đã biết rằng Hydroquinone chuyển hoá chủ yếu trong gan và tuỷ xương.

 

Cụ thể Hydroquinone được chuyển hóa như sau:

 

1. Một phần nhỏ được chuyển hóa thành p-benzoquinone

2. Một phần được chuyển hóa qua con đường sulphat

3. Phần chính được chuyển hóa qua con đường glucuronid

4. Một phần nhỏ của hydroquinone được hấp thụ không qua chuyển hóa

Các chất sulphate và glucuronate được bài tiết chủ yếu qua nước tiểu. Điều này có thể giải thích tại sao u tuyến thận tìm thấy trong động vật thử nghiệm.

 

Hydroquinone được coi là chất chuyển hóa chính của benzene và được biến đổi thành các hợp chất độc hại và gây độc gen, chẳng hạn như p-benzoquinone. Thông qua quá trình oxy hóa nhờ vào hoạt động của peroxidase, hydroquinone được chuyển hóa thành p-benzoquinone. Myeloperoxidase (MPO) là một trong các peroxidase quan trọng nhất có trong tủy xương.

 

Đồng thời trong tủy xương, hydroquinone được chuyển hóa hiệu quả thành 2,3,5-tris-glutathione-S-yl hydroquinone. Hợp chất này, kết hợp với hydroquinone và/hoặc p-benzoquinone có thể trải qua quá trình oxy hóa khử, cơ chế này có tác động lâu dài, đặc biệt là đối với tủy xương.

 

Chất chuyển hóa p-benzoquinone là một electrophile, nó phản ứng dễ dàng liên kết với tế bào protein và DNA có khả năng gây hại cho những cấu trúc của tiền thân và mô đệm của tủy xương. Người ta thấy rằng hydroquinone có thể gây ra những thay đổi di truyền trong các tế bào tủy của xương người. Những tế bào này có liên quan đến giai đoạn đầu của sAML (secondary acute myelogene leukaemia: một dạng bệnh bạch cầu).

 

Cơ chế phát sinh ung thư:

Một số thuật ngữ

– RB: tumour suppressor gene (tạm dịch: gene ức chế khối u)

– P53: tumour suppressor gene ((tạm dịch: gene ức chế khối u)

– Bax: protein that induces the leakage of mitochondrial cytochrome C causing the activation of apoptotic proteases (tạm dịch: protein gây rò rỉ cytochrome C trong ty thể, làm hoạt hoá apoptotic proteases)

– Bcl2: protein that the function of Bax blocks by bonding to Bax (tạm dịch: protein liên kết để ngăn chặn sự hoạt động của Bax)

 

 

Hình 11. Cơ chế tác động của Hydroquinone gây ung thư [11]

 

Kuo và cộng sự kết luận rằng do Hydroquinone làm gia tăng protein Bcl2 nên có khả năng gây đột biến và tăng khả năng sinh tế bào ung thư vì sự suy yếu của cơ chế sửa chữa DNA và ức chế quá trình chết của tế bào tân sinh. Họ kết luận rằng các chất chuyển hóa của benzen đã điều chỉnh quá trình tế bào chết theo chương trình Bcl2 trong các tế bào tiền thân của tủy xương, có thể thúc đẩy quá trình sinh ung thư. *Đọc thêm về cơ chế Apoptosis tại [12]*.

 

Khi sử dụng hydroquinone trong thời gian dài, nồng độ trong cơ thể có thể tích tụ dẫn đến nguy cơ chuyển hóa lớn hơn thành các chất gây ung thư. Các rủi ro khi bôi hydroquinone tại chỗ có thể cao hơn so với tiếp xúc qua đường phổi hoặc đường tiêu hóa. Nguy cơ cao hơn này cũng là hậu quả của việc hấp thụ nhanh và phân phối nhanh hydroquinone khi bôi lên da. Gan bị hư tổn một phần, do đó, quá trình giải độc diễn ra ít hơn, và quá trình chuyển hóa sẽ diễn ra ở các cơ quan khác, đặc biệt là tủy xương, nhưng tủy xương thì không có khả năng giải độc.

Người ta vẫn chưa chứng minh được rằng khi sử dụng hydroquinone qua đường bôi trong khoảng thời gian dài có thể dẫn đến các tác động lâu dài như ung thư hay không. Hiện tượng này vẫn chưa được nghiên cứu, nhưng những người sử dụng lâu dài các chất làm sáng da có chứa hydroquinone thường thu nạp và tích lũy một lượng hydroquinone đáng kể trong cơ thể.

 

Việc sử dụng Hydroquinone để điều trị các vấn đề về sắc tố cần phải có kiến thức và nên tham khảo ý kiến của bác sĩ. Trong trường hợp muốn điều trị an toàn hơn, các bạn có thể tham khảo một số chất thay thế sau đây!

 

1. Azelaic acid

Axit azelaic là một carboxylic acid tự nhiên có nguồn gốc từ Pityrosporum ovale. Nó ức chế sự kích hoạt enzyme oxy hóa ty thể, cũng như tyrosinase. Axit azelaic đã được sử dụng thành công trong điều trị bệnh hắc lào ở mặt và bệnh trứng cá đỏ.[13] Một số nghiên cứu đã báo cáo tác dụng có lợi vượt trội trong việc điều trị nám da bằng Azelaic acid khi so sánh với hydroquinone, trong khi các nghiên cứu khác không tìm thấy sự khác biệt đáng kể giữa hai tác nhân này đối với tình trạng này. [14]

 

Axit azelaic dùng tại chỗ ở nồng độ 15 và 20% được bán theo toa ở Hoa Kỳ với liều dùng hai lần/ngày trong 3 đến 12 tháng. Azelaic acid thường được dung nạp tốt và có thể được sử dụng trong thời gian dài.[15]Các tác dụng phụ thường gặp nhất là ban đỏ và kích ứng da, thường sẽ hết sau 2 đến 4 tuần sử dụng.

 

2. Kojic acid

Kojic acid là một chất ức chế tyrosinase có nguồn gốc từ các loài nấm và được sử dụng rộng rãi ở Châu Á với nồng độ từ 1 đến 4%. Kết hợp kojic acid với corticosteroid tại chỗ có thể làm giảm kích ứng. Các sản phẩm làm sáng da có chứa kojic acid thường được sử dụng hai lần mỗi ngày trong 1 hoặc 2 tháng.

 

Trong một nghiên cứu trên những bệnh nhân bị nám biểu bì, một sản phẩm có chứa 0,05% hydroquinone, 10% axit glycolic và 2% axit kojic tỏ ra vượt trội so với một sản phẩm chứa 2% hydroquinone và 10% axit glycolic và không chứa Kojic acid. [16]

Các nhà sản xuất sản phẩm có chứa arbutin trích dẫn nồng độ 1% là hiệu quả để làm giảm sắc tố. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã cho thấy Kojic acid hiệu quả hơn Arbutin trong quá trình nghiên cứu. [16]

 

3. Niacinamide

Niacinamide, dạng amide của vitamin B3, ức chế sự chuyển các melanosome đến các tế bào sừng của biểu bì. Các nghiên cứu ban đầu xác nhận hiệu quả của 3,5% niacinamide dùng với retinyl palmitate trong chứng tăng sắc tố. [17]

 

=> Tóm tắt

– Hydroquinone là “Tiêu chuẩn vàng” trong điều trị nám. Tuy vậy, HQ có thể gây ra tác dụng phụ nguy hiểm nếu không được sử dụng dưới sự giám sát của bác sĩ hoặc chuyên gia da liễu. Do đó, nếu muốn sử dụng HQ, nên có sự thăm khám bác sĩ để có phác đồ điều trị phù hợp

 

– Nhiều thành phần làm sáng da đã được nghiên cứu phát triển thay thế cho HQ, ví dụ như Arbutin, Niacinamide, Azelaic acid, Vitamin C, các chiết xuất như Cam thảo, AHA, Tranexamic acid… (xem thêm trong các link được trích dẫn ở trên)

 

=> Do đó, phụ thuộc vào tình trạng nám, bạn có thể chọn các thành phần làm sáng da an toàn hơn, ví dụ:
+ Tình trạng nám nhẹ: Sử dụng kết hợp các hoạt chất sáng da kể trên như: Niacinamide, Azelaic acid, Vit C, AHA, Tranexamic acid..
+ Tình trạng nám trung bình: kết hợp các hoạt chất trên + sử dụng các kỹ thuật như Lazer, peel….
+ Tình trạng nám nặng: Sử dụng Hydroquinone dưới sự giám sát của bác sĩ, đồng thời có thể kết hợp với các hoạt chất trên hay các công nghệ như Lazer

 

A) Research

[1] Rendon, M. I., & Gaviria, J. I. (2005). Review of skin‐lightening agents. Dermatologic surgery, 31, 886-890.

[2] Thongchai, W., Liawruangrath, B., & Liawruangrath, S. (2007). High-performance liquid chromatographic determination of arbutin in skin-whitening creams and medicinal plant extracts. Journal of cosmetic science, 58(1), 35-44.

[3] Assaf, M. H., Ali, A. A., Makboul, M. A., Beck, J. P., & Anton, R. (1987). Preliminary study of phenolic glycosides from Origanum majorana, quantitative estimation of arbutin; cytotoxic activity of hydroquinone. Planta medica, 53(04), 343-345.

[4] Matsuda, H., Higashino, M., Nakai, Y., IInuma, M., Kubo, M., & Lang, F. A. (1996). Studies of cuticle drugs from natural sources. IV. Inhibitory effects of some Arctostaphylos plants on melanin biosynthesis. Biological and Pharmaceutical Bulletin, 19(1), 153-156.

[5] Lim, Y. J., Lee, E. H., Kang, T. H., Ha, S. K., Oh, M. S., Kim, S. M., … & Kim, S. Y. (2009). Inhibitory effects of arbutin on melanin biosynthesis of α-melanocyte stimulating hormone-induced hyperpigmentation in cultured brownish guinea pig skin tissues. Archives of pharmacal research, 32(3), 367-373.

[6] Degen, G. H. (2016). Opinion of the Scientific Committee on Consumer safety (SCCS)–Opinion on the safety of the use of α-arbutin in cosmetic products. Regulatory Toxicology and Pharmacology, 74, 75-76.

[7] Degen, G. H. (2015). Opinion of the Scientific Committee on Consumer Safety (SCCS)–Opinion on the safety of the use of β-arbutin in cosmetic products. Regulatory Toxicology and Pharmacology, 73(3), 866-867.

[8] Dog, T. L. (2009). The use of botanicals during pregnancy and lactation. Altern Ther Health Med, 15(1), 54-8.

[9] Rendon, M. I., & Gaviria, J. I. (2005). Review of skin‐lightening agents. Dermatologic surgery, 31, 886-890.

[10] Draelos, Z. D. (2007). Skin lightening preparations and the hydroquinone controversy. Dermatologic Therapy, 20(5), 308-313.

[11] Kooyers, T. J., & Westerhof, W. (2006). Toxicology and health risks of hydroquinone in skin lightening formulations. Journal of the European academy of Dermatology and Venereology, 20(7), 777-780.

[12] Chang, H. Y., & Yang, X. (2000). Proteases for cell suicide: functions and regulation of caspases. Microbiology and molecular biology reviews, 64(4), 821-846.

[13] Fitton, A., & Goa, K. L. (1991). Azelaic acid. A review of its pharmacological properties and therapeutic efficacy in acne and hyperpigmentary skin disorders. Drugs, 41(5), 780–798. https://doi.org/10.2165/00003495-199141050-00007

[14] Baliña, L. M., & Graupe, K. (1991). The treatment of melasma 20% azelaic acid versus 4% hydroquinone cream. International journal of dermatology, 30(12), 893-895.

[15] Sarkar, R., Bhalla, M., & Kanwar, A. J. (2002). A comparative study of 20% azelaic acid cream monotherapy versus a sequential therapy in the treatment of melasma in dark-skinned patients. Dermatology, 205(3), 249-254.

[16] Lim, J. T. E. (1999). Treatment of melasma using kojic acid in a gel containing hydroquinone and glycolic acid. Dermatologic surgery, 25(4), 282-284.

[17] Hakozaki, T., Minwalla, L., Zhuang, J., Chhoa, M., Matsubara, A., Miyamoto, K., … & Boissy, R. E. (2002). The effect of niacinamide on reducing cutaneous pigmentation and suppression of melanosome transfer. British Journal of Dermatology, 147(1), 20-31.

 

B) Others

[O1] https://balmonds.co.uk/blogs/blog/whats-the-best-treatment-for-melasma

[O2] https://www.researchgate.net/figure/Close-view-of-the-erythromelanosis-follicularis-faciei-et-colli-with-atrophy-There-is_fig2_317414746

[O3] https://www.scielo.br/scielo.php?script=sci_arttext&pid=S0365-05962010000500017

[O4] https://www.semanticscholar.org/paper/Exogenous-ochronosis-hydroquinone-induced%3A-a-report-Ribas-Schettini/04079044dbf31d6ebf9b734820cafefbe15c98d8/figure/0

[O5]https://ifree.vn/alpha-arbutin/

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *